Nội dung gửi qua gồm:
+ Thông tin: Ngày tháng năm giờ sinh + lá số.
Mail: tinhnhuan.ps@gmail.com
Nội dung gửi qua gồm:
+ Thông tin: Ngày tháng năm giờ sinh + lá số.
Mail: tinhnhuan.ps@gmail.com
(★) Chú ý: bài viết chỉ mang tính tham khảo, ko khuyến khích người đọc tự ý thực hiện. Mọi vấn đề xảy ra khi người đọc tự ý làm mà ko có sự trao truyền chỉ dẫn của bậc thầy tôi ko chịu trách nhiệm.
Mật Khôn truyền - Hỗn Trung Quân
Hành giả muốn sử dụng pháp này buộc phải có sự tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước. Ko được làm sơ sài hoặc bỏ bước.
Trước dùng một vỏ ốc biển đổ đầy dầu bơ vào ( hoặc dầu ăn ) và châm đốt tim dầu mà soi vào thân người đã chết hoặc sắp chết.
Khi người đó tắt thở thì lập tức lấy thoa dầu sát vào thân người đã mất. Sau buộc phải chờ đến ngày rằm tháng giêng lập một bài vị " BÁC THẦN NGŨ QUỶ " đặt tại một nơi sạch sẽ và dâng biện mâm cúng vong. Lễ cúng:
(...ko trình bày...)
》Giai đoạn 2:
(...ko trình bày...)
Tác Chú:
Thành hữu thành yêu
Tự yếu bối yêu
Tam tựu tam yêu
Lục tựu lục tùy
Bác thần ngũ quỷ trú phương, ngã kim thỉnh nhĩ nhập tiền tràng, hô sắc hát tiền tùy ngô chuyển, bất phạ... (ko trình bày thêm)...
Kỳ Môn Ðộn Giáp là một khoa học về phương - vị dựa trên cơ sở nguyên lý Cảm Ứng Ðiện Từ.
Ta đều biết trái đất là một từ trường lớn, chịu ảnh hưởng của hệ Mặt Trời, tức chịu ảnh hưởng của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hệ sao khác. Con người là một vật mang điện (nhân điện). Khi một vật mang điện mà di động trong một từ trường nó sẽ bị từ trường ảnh hưởng, cảm ứng và tác động. Mà từ trường của trái đất lại chịu sự ảnh hưởng của cả Hệ Mặt Trời. Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hệ sao khác luôn luôn di chuyển, do đó sự cảm ứng và tác động điện từ vào con người ta cũng luôn luôn thay đổi theo từng ngày, từng giờ, từng phút. Làm cho con người ta lúc khỏe lúc yếu, lúc tốt lúc xấu.Kỳ Môn Ðộn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sự ảnh hưởng của điện từ trường đó sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.Kỳ Môn Ðộn Giáp là một môn cổ học tinh hoa của người Trung Hoa được phát minh vào khoảng 5 ngàn năm trước đây. Từ thời Hoàng Ðế lập quốc đã được sử dụng trong trận chiến với Si Vưu. Sau này, được các Thánh hiền khác như Thái Công, Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng Khổng Minh, Lưu Bá Ôn, . phát triển và hoàn chỉnh thêm. Thời xưa, chủ yếu được dùng trong đấu tranh chính trị và quân sự. Hiệnnay, Kỳ Môn Ðộn Giáp đã được áp dụng rất rộng rãi trong mọi lĩnh vực trong đời sống hàng ngày.Kỳ Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa Lợi Nhân Hòa).Kỳ là Tam kỳ và Lục Nghi trong 10 Thiên can thì Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ, còn Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Con giáp được ẩn đọng trong Lục Nghi nên gọi là Ðộn Giáp.Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh Môn, Kinh Môn, và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ mà Gia Cát Khổng Minh đã sử dụng để nhốt Lục TỐn. Tên trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn, và Xà Môn. Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Cái kỳ diệu đó có lẽ cũng chỉ có một số nhà quân sự vĩ đại như Gia Cát Khổng Minh, Tôn Tử, Thái Công, Trương Lương, Lưu Bá Ôn mới hiểu hết được cái thần diệu vĩ đại của nó. Ở Việt Nam chỉ có cụ Trạng Trình là thấu hiểu được môn khoa học này. Vậy Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta.Ngoài ra còn có Cửu Cung Tinh tức là chín cung màu. Là 1 - Trắng, 2 - Ðen, 3 - Biếc, 4 - Lục, 5 - Vàng, 6 - Trắng, 7 - Ðỏ, 8 - Trắng, và 9 - Tím. Là chín loại bức xạ của tuyến Vũ Trụ, chúng xuyên qua lớp khí quyển tới mặt đất và ảnh hưởng đến sinh lý, hành vi của sinh vật trên trái đất.Cửu Thiên Tinh là 9 ngôi sao gồm có 7 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu và 2 ngôi sao phụ. Chúng có tên là Thiên Bồng, Tiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm, Thiên Tâm, Thiên Trụ, Thiên Nhiệm và Thiên Anh. 9 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu này có ảnh hưởng tới con người ta trên Trái Ðất đã được biết từ ngàn xưa.Bát Thần là 8 ông thần có tên Trực Phù, Ðằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Ðịa, và Cửu Thiên.Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng tới trái đất theo năm, tháng, ngày, giờ và thời tiết, gây nên những cảm ứng khác nhau cho vạn vật trên trái đất trong đó có con người chúng ta, hình thành tốt (cát) hay xấu (hung). Sự biến hóa thay đổi đó được thể hiện trên 9 cung của Bàn Ðồ Kỳ Môn Ðộn Giáp như một mạch điện từ, nó thay đổi biến hóa theo sự vận chuyển của trái đất và Thái Dương Hệ theo năm, tháng, ngày, giờ và tiết khí. Vậy Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp chính là một "Phương vị học" được dùng để tuyển cát, tức dùng để chọn một thời điểm một hướng tốt, thời điểm đó và hướng đó ta có thể có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, để htực hiện mục đích riêng của ta, và biến vận xấu thành vận tốt.Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp xưa kia được dùng trong đấu tranh chính trị quân sự, sau này mới phát triển và được dùng trong mọi lĩnh vực cả về tướng mệnh học, địa lý bói toán, .Việc ứng dụng Kỳ Môn Ðộn Giáp trong đời sống hàng ngày.Như phần trên đã nó, ngoài quân sự và chính trị, Kỳ Môn Ðộn Giáp còn được ứng dụng rất rộng rãi trong các vấn đề đời sống hàng ngày như sự nghiệp, nghiệp vụ, quan trường, thưng mại, tổ chức xí nghiệp, du lịch, kiện tụng, bệnh tật, thi cử, vay mượn, sinh đẻ, mua bán nhà đất, xây cất hay sửa chữa nhà, mở tiệm, tổ hợp kinh doanh, tình yêu, và hôn nhân, di chuyển chỗ ở, dấu ấn, số mệnh học, và chọn ngày giờ tốt ch mọi vấn đề, . (sau này bút giả sẽ dành thì giờ để soạn tiếp các mục).Riêng về vấn đề chọn ngày giờ tốt và hướng tốt, nếu như ta dựa trên những cuốn lịch để chọn, nhiều lúc không thể phù hợp với vấn đề cụ thể của ta được, vì lịch dựa trên cơ sở bất động để chọn, ví dụ như chọn ngày giờ theo tuổi của ta, nếu xung là xấu nếu hợp là tốt, rồi xem gặp vị thần nào, lành hay dữ thì quyết định là tốt hay xấu. Còn việc chọn ngày giờ theo Kỳ Môn Ðộn Giáp là dựa theo cơ sở động, mà con người ta cũng có thể di chuyển, không phải ngồi yên một chỗ, một khi di chuyển như vậy thì không gian và thời gian cũng thay đổi theo, các vấn đề tốt hay xấu đều thay đổi theo từng giờ từng phút. Do đó, Kỳ Môn Ðộn Giáp có dạy ta là bất kỳ một ngày nào, giờ nào hay hướng nào đều có thể sử dụng được, chủ yếu là phương pháp sử dụng của ta như thế nào để có lợi và tránh được cái bất lợi mà thôi.Kỳ Môn Ðộn Giáp đầu tiên thời Hoàng Ðế lập thành 1080 cục. Ðến Thái Công rút gọn thành 72 cục. Sau đó Trương Lương rút gọn lại nữa thành 18 cục cơ bản, gồm có 9 cục dương và 9 cục âm. Nếu ta sử dụng hết 1080 cục kết hợp với sự biến hóa của Bát Môn, Cửu Thiên Tinh, Bát Thần, Cửu Cung Tinh và tiết khí thì ta có hàng triệu cách biến hóa. Do sự thiên biến vạn hóa như vậy đã đưa tới sự bách chiến bách thắng của Thái Công, Trương Lương, Gia Cát Khổng Minh, Lưu Bá Ôn lưu danh muôn đời.Cái khó của Kỳ Môn Ðộn Giáp là ở chỗ thiếp lập các đồ bàn sao cho chính xác. Một khi đã lập xong các đồ bàn thì việc xét đoán lại rất dễ. Nhằm vào cái khó khăn đó, bút giả dã dày công nghiên cứu và đã lập thành các bảng biểu để tra, và tính sẵn thành lịch Ðộn Giáp để độc giả dễ bề sử dụng được nhanh chóng. Cần nói thêm là lịch Ðộn Giáp ở đây bút giả đã chuyển đổi theo lịch Thiên Nhiên và sử dụng Dương Lịch để độc giả tiên việc tra cứu(...)/
CÁC HỆ CUNG TRONG BÁT QUÁI
《 Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài 》
1/ Càn- Kim: Tây Bắc -Tuất Hợi, tháng 9; 10 sắc trắng, thuộc số 6 (lục càn)
2/ Khảm-Thuỷ: Chính Bắc -Tý, tháng 11, sắc đen, thuộc số 1 (nhất khảm)
3/Cấn-Thổ: Đông Bắc - Sửu Dần , tháng 12, giêng, sắc vàng, thuộc số 8 (bát cấn)
4/Chấn - Mộc: Chính Đông-Mão, tháng 2, sắc xanh, thuộc số 3 (tam chấn)
5/Tốn-Mộc: Đông Nam-Thìn Tỵ, tháng 3;4, sắc xanh, số 4 (tứ tốn)
6/Ly-Hoả: Chính Nam- Ngọ, tháng 5, sắc đỏ, thuộc số 9 (cửu ly)
7/Khôn-Thổ: Tây Nam-Mùi Thân, tháng 6;7, màu huỳnh, thuộc số 2 (nhì khôn)
8/ Đoài-Kim: Chính Tây-Dậu, tháng 8, màu trắng, thuộc số 7 (thất đoài)
CỬU CUNG BÁT QUÁI
Nhất Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly (Là số của Cửu cung)
BÁT MÔN ĐẠI ĐỘN LUẬN
Bát môn vốn là Bát quái biến ra khởi thuận hành mỗi cung vị tại Khảm thuận hành là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Kiển, Tử, Kinh, Khai. Thứ tự như sau: Hưu tại Khảm Sinh - Cấn Thương -Chấn Đỗ - Tốn Kiển - Ly Tử - Khôn Kinh - Đoài Khai - Càn Trại ra bát môn cho khỏi lầm lạc các môn độn khác. Nếu thạo can chi, ngũ hành, bát quái thì xem Bát môn rất dễ.
*Bát môn thần khoá bổ sung :- Tại hạ xin hân hạnh góp ý thêm vào Bát môn thần khoá mục:
Tam hợp: Hợi-Mão-Mùi thuộc Mộc cục.
Thân-Tý-Thìn thuộc Thủy cục Ty.
Dậu-Sửu thuộc Kim cục Dần-Ngo.-Tuất thuộc Hoả cục
Nhiều người nghe đến hai tiếng Bát Môn đều ham, cũng như nhắc đến tài của Khổng Minh ai nào chẳng khen phục. Khổng Minh là người sáng tác ra quẻ Bát Môn ấy. Cũng lắm ông khó tính như soạn giả không tin gì lắm nhưng khi học qua được mới rõ quẻ tuy đơn gian mà ứng nghiệm. Từ trước những ông chỉ chuyên nội quẻ Bát Môn cũng nổi tiếng đó đây, song nói là môn ruột đừng hòng các ông ấy chỉ lại cho ai.Có người gặp đặng quyển ấy lưu truyền, nhưng vấp phải Hán tự khó như Pháp văn chẳng phải chữ đâu nghĩa đó theo nối Việt văn, nên cần phải hiểu rõ lý của nó. Hơn nữa Hán văn còn bí mật hơn. Cả một bài dài thườn thượt mỗi câu gói ghém đầy bí mật lại chẳng phân câu cho nên một bài mà mỗi lần bạn đọc qua thấy nghĩa mỗi lần khác nhau. Nên soạn giả giúp đủ tài liệu cho các bạn hiếu kỳ có được môn này trong tay mà kinh nghiệm cho thoả.
Lý Thuần Phong: Thái sử lệnh đời Đường Cao Tông, giỏi thiên văn lịch số là một nhà toán học xuất sắc đã làm chú thích Thập bộ toán kinh.
BÁT MÔN THẦN KHOÁ
*GIỜ ÂM LỊCH :
-Nhiều môn toán độn cần ghép giờ Âm lịch lúc người ta mốn xem mà định quẻ, lấy sai giờ thì quẻ đoán sai cả, đến việc chọn ngày giờ cũng cần nhất là giờ Âm lịch. Mỗi 1 ngày đêm là 12 giờ âm lịch (hiệp đồng hồ). Bắt đầu từ giữa đêm là giờ: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi mỗi giờ là 2 tiếng đồng hồ. Giờ tháng trước sớm hoặc trễ hơn tháng sau những 10 phút, đầu giờ tháng 11 là 0 giờ 10 phút, đầu giờ Tý tháng năm là 1 giờ 10 phút sớm hoặc trễ cả 1 tiếng đồng hồ.
Xem kỹ đây là tính theo giờ Việt nam (từ 1960—1975) (Múi giờ 8)
Tháng 11: đầu giờ Tý là 0 giờ 10 phút (đầu giờ Ngọ là 12 giờ 10 phút)
Tháng 12 và tháng 10: đầu giờ Tý là 0 giờ 20 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 20 phút)
Tháng 1 và tháng 9: đầu giờ Tý là 0 giờ 30 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 30 phút)
Tháng 2 và tháng 8: đầu giờ Tý là 0 giờ 40 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 40 phút)
Tháng 3 và tháng 7: đầu giờ Tý là 0 giờ 50 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 50 phút)
Tháng 4 và tháng 6: đầu giờ Tý là 1 giờ (giờ Ngọ là 13 giờ đúng)
Tháng 5: đầu giờ Tý là 1 giờ 10 phút (và giờ Ngọ là 13 giờ 10 phút)
*Bạn tinh ý 1 chút thì nhớ đặng khỏi cần dùng đến sách. Từ tháng 11 thuận đến tháng 5 mỗi tháng lên 10 phút, và từ tháng 5 đến tháng 11 mỗi tháng sụt xuống 10 phút.
*BẢNG GIỜ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM THEO MÚI GIỜ
Hiện tại 23 Tháng 12 đầu giờ Thân là 16 giờ 30 phút.
Tháng 12 và tháng 10: đầu giờ Tý là 23 giờ 20 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 20 phút)
Tháng 1 và tháng 9: đầu giờ Tý là 23 giờ 30 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 30 phút)
Tháng 2 và tháng 8: đầu giờ Tý là 23 giờ 40 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 40 phút)
Tháng 3 và tháng 7: đầu giờ Tý là 23 giờ 50 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 50 phút)
Tháng 4 và tháng 6: đầu giờ Tý là 0 giờ (giờ Ngọ là 12 giờ đúng)
Tháng 5: đầu giờ Tý là 0 giờ 10 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 10 phút)
NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH, TƯƠNG KHẮC 1.
Tương sinh theo chiều mũi tên như sau: Kim --> Thuỷ--> Mộc-->Hoả-->Thổ-->Kim (khép kín)
2. Tương khắc theo chiều mũi tên như sau: Kim--> Mộc--> Thổ--> Thuỷ--->Hoả--> Kim (khép kín)
NGŨ HÀNH VƯỢNG TƯỚNG THEO 4 MÙA
Mùa xuân: tháng 1 tháng 2 thộc Mộc - thì hành Mộc vượng, Hoả tướng, Thuỷ hưu, Kim tù, Thổ tử.
Mùa hạ: tháng 4 tháng 4 thuộc Hoả - thì hành Hoả vượng, Thổ tướng, Mộc hưu, Thuỷ tù, Kim tử.
Mùa thu: tháng 7 tháng 8 thuộc Kim - thì hành Kim vượng, Thuỷ tướng, Thổ hưu, Hoả tù, Mộc tử.
Mùa đông: tháng 10 tháng 11 thuộc Thuỷ - thì hành Thuỷ vượng, Mộc tướng, Kim hưu, Thổ tù, Hoả tử.
Tứ quý: tháng 3 tháng 6 tháng 12 thuộc Thổ - thì hành thổ vượng, Kim tướng, Hoả hưu, Mộc tù, Thuỷ tử.
Được vượng tướng, tốt, hưu tầm thường, tù, tử xấu.
THIÊN CAN, ĐỊA CHI THUỘC NGŨ HÀNH
1. Thiên can Giáp, Ất - Mộc; Bính, Đinh - Hoả; Mậu, Kỷ - Thổ; Canh, Tân - Kim; Nhâm, Quý - Thuỷ
2. Địa chi Hợi, Tý - Thuỷ; Dần, Mão - Mộc; Tỵ, Ngọ - Hoả; Thân, Dậu- Kim; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi - Thổ.
TAM HỢP Hợi- Mão- Mùi, Tỵ- Dậu- Sửu, Thân- Tý- Thìn; Dần- Ngọ- Tuất.
LỤC HỢP Tý- Sửu; Dần- Hợi; Mão- Tuất; Thìn- Dậu; Tỵ- Thân; Ngọ- Mùi.
TỨ HÀNH XUNG Tý-Ngọ-Mão-Dậu; Thìn-Tuất-Sửu-Mùi; Dần-Thân-Tỵ-Hợi
LỤC XUNG Tý-Ngọ; Sửu-Mùi; Dần-Thân; Mão-Dậu; Thìn-Tuất; Tỵ-Hợi
LỤC HẠI Tý-Mùi, Sửu-Ngọ; Dần-Tỵ; Mão-Thìn; Hợi-Thân; Tuất-Dậu
Theo tôi việc áp vong tìm mộ và thuật thôi miên tuy có vẻ gần giống về hình thức ban đầu ứng dụng hai phương pháp này, nhưng bản chất của chúng khác hẳn nhau.Giống nhau:
* Khi bắt đầu áp vong và Thôi miên thì người bị thôi miên và được Áp vong đều ở trạng thái không điều khiển được ý thức của mình.Thuật thôi miên có thể thôi miên tập thể, hoặc cá nhân bởi một người sử dụng thuật này. Thuật Áp vong cũng có thể áp vong tập thể bởi một nhà ngoại cảm. Khác biệt:
*Thuật thôi miên chỉ dừng lại ở sự tương tác với tiềm thức và ý thức của đối tượng được thôi miên qua những hành vi bất thường của họ. Đây là sự khác biệt căn bản, nhưng không thấy các bài báo và nhà thôi miên Nguyễn Mạnh Quân nói tới sự khác biệt này.
* Về nội dung thì nhà ngoại cảm giải thích là do vong của những người trong gia đình nhập vào những người được Áp vong. Tức là - với cách giải thích này - những người được vong nhập không chịu sự tương tác trực tiếp từ nhà ngoại cảm mà chịu sự tương tác của một hay nhóm vong tương ứng với từng nhóm gia đình khác nhau. Còn với thuật thôi miên thì chỉ chịu sự tương tác duy nhất bởi người thôi miên cho một hay nhiều người bị thôi miên.
* Những vong nhập vào từng gia đình có thể kể chuyện về mối quan hệ quá khứ của vong với người thân trong gia đình đó. Qua câu chuyện vong, những người trong gia đình có thể thẩm định đó chính là vong của người thân hay không. Đây là điểm khác biệt đầu tiên mặc dù hiện trạng không kiểm soát ý thức giống nhau của người bị vong nhập và người bị thôi miên. Người bị thôi miên không thể nói chuyện có tính riêng tư và trao đổi tình cảm với tư cách một người đã từng chung sống với người thân.
* Sau khi vong nhập thì vong đó có thể chỉ ra chỗ hài cốt mà họ đang nằm và có thể kiểm chứng bằng thực tế - Tức là đào chỗ đó lên có cốt hay không. Ở đây, tôi xin lưu ý là: Tôi chưa bàn đến vấn đề cốt tìm được đó có đúng là của người chết cần tìm không. Còn thuật thôi miên không thể hiện được điều này.Quan điểm của tôi là: Khi nghiên cứu khoa học thì phải thừa nhận hiện tượng khách quan tồn tại. Thuật thôi miên là một thực tế khách quan đang tồn tại, được chứng tỏ bằng những người bị thôi miên không điều khiển được ý thức của mình. Áp vong cũng là một thực tế đang tồn tại và được chứng thực bằng một hệ quả khách quan là tìm được hài cốt sau đó. Vấn đề còn lại để gọi là nghiên cứu khoa học đích thực chính là tìm hiểu cơ chế tương tác nào là nguyên nhân của những thực tại khách quan trên, hoặc một cách giải thích hợp lý phù hợp với tiêu chí khoa học cho một luận điểm nhân danh khoa học.
Người bị thôi miên và tự kỷ ám thị
Người tự kỷ ám thị và người thôi miên để người ta tự kỷ ám thị là hai vấn đề khác nhau. Có người không cần thôi miên, mà do họ tự kỷ ám thị. Ví dụ như người bị hoang tưởng hay tâm thần cũng rơi vào trường hợp tự kỷ ám thị. Sự tự thân tự kỷ ám thị phụ thuộc vào môi trường nhận thức. Thí dụ ở phương Đông, người tự kỷ ám thị có thể nhận là con Ngọc hoàng thượng đế. Nhưng ở phương Tây là người tự kỷ ám thỉ có thể nhận là cháu của chúa Jesu, bởi vì họ không biết Ngọc hoàng thượng đế là ai. Tự kỷ ám thị bị ảnh hưởng bởi tri thức nền tảng của môi trường xã hội mà họ đang sống và họ tự cho là họ có khả năng gì đó, ở người tâm thần cũng có hiện tượng này. Cho nên chúng ta cũng không loại trừ có những người tự kỷ ám thị là họ có khả năng áp vong. Những người này có thể quảng cáo khả năng của họ, nhưng lại không ứng dụng được trên thực tế.Trường hợp thôi miên thì cũng là một dạng tự kỷ ám thị , nhưng do tương tác trực tiếp của nhà thôi miên và lệ thuộc vào sự tác động này. Ngoại cảm và người vong nhập tìm mộ.Khi xảy ra hiện tượng được các nhà ngoại cảm gọi là "vong nhập" thì xuất hiện hiện tượng giống như hiện tượng bị thôi miên mà tôi đã nói ở trên. Nhưng người bị tự kỷ ám thị do thôi miên không bao giờ có khả năng chỉ được ở chỗ nào đó có bộ xương được coi là của vong người chết đã nhập. Việc chỉ ra chỗ vong nằm - có thể coi như một lời dự báo và lời dự báo này có thể kiểm chứng bằng cách đào lên có cốt hay không (Tôi nhắc lại là tôi chưa bàn đến việc cốt đó có đúng là của người chết đã hiện về báo hay không? Vấn đề này cần những biện pháp thẩm định sẽ nói sau). Điều này, những nhà ngoại cảm thực sự đã thể hiện trên thực tế nhiều năm qua ở Việt Nam. Còn những nhà ngoại cảm giả hiệu và những người tự kỷ ám thị tự cho mình có khả năng này và họ sẽ bị loại trừ ngay vì tính hiệu quả không có của họ. Bởi vậy, cá nhân tôi không tin rằng một Trung Tâm ngoại cảm giả hiệu có thể tồn tại lâu nếu như thực sự không có khả năng. Bản thân tôi đã ba lần chứng kiến hiện tượng ngoại cảm tìm mộ. Tôi xác định rằng hiện tượng người có khả năng áp vong và ngoại cảm tìm mộ là thực tế khách quan xuất hiện trong tiềm năng con người.Bởi vậy, theo tôi không nên nhầm lẫn giữa ngoại cảm, áp vong tìm mộ với thuật thôi miên. Mặc dù về hình thức ban đầu của hai phương pháp có vẻ gần giống nhau , như tôi đã nói ở trên. Nhưng hiện tượng ngoại cảm , áp vong tìm mộ đưa ra một kết quả có thể kiểm chứng trên thực tế: Đào chỗ "vong " nằm có hài cốt hay không?!Thí dụ như những nhà ngoại cảm có khả năng áp vong thực sự đã được khảo nghiệm như NNC Hoàng Thị Thiêm..vv.. kết quả của những lần áp vong ấy là đưa ra vị trí hài cốt có thể đào lên để kiểm chứng. Khi đào lên, cốt được xác định là xương người chứ không phải xương của động vật hay người ngoài hành tinh. Đây chính là sự khác biệt giữa ngoại cảm và thôi miên. Người bị thôi miên hoàn toàn không có khả năng này
Định nghĩa thế nào là thôi miên?Thôi miên là phương pháp ứng dụng đã xuất hiện ở những nền văn minh cổ xưa. Đó là một phương pháp có thể truyền đạt và người học rèn luyện để có khả năng tác động tới ý thức người bị thôi miên. Do phương pháp thôi miên được ứng dụng chủ động của nhà thôi miên, nên họ có thể ngưng, hoặc tiếp tục đối với người bị thôi miên. Phương pháp thôi miên là một thực tế đang tồn tại, nhưng người ta cũng chỉ giải thích trên cơ sở thực tại khách quan đó và chưa xác định được cơ chế tương tác cụ thể như thế nào.
Định nghĩa thế nào là áp vong?Về vấn đề này có những đối tượng liên quan cần tổng hợp để định nghĩa - khác với thôi miên - Đó là: Vong - người được áp vong và nhà ngoại cảm (Khác với thôi miên chỉ có hai đối tượng và tương tác một chiều). Nên tôi phải nói hơn là: * Về khái niệm "Vong": Cá nhân tôi không quan niệm "vong" là linh hồn người chết có hình thức giống hệt người đó khi còn sống hiện về và - hoặc là nhập vào người sống, hoặc hiển thị cho người sống nhìn thấy...vv....Về khái niệm linh hồn (vong) tôi có xu hướng quan niệm gần giống - hoặc chí ít cũng là một khái niệm để suy xét - với khái niệm "A Lại Gia Thức" theo minh triết Phật giáo.* Về hiện tượng vong nhập:Người được coi là bị vong nhập là người do tương tác của nhà ngoại cảm không kiểm soát được ý thức và thân xác bị chi phối của một dạng tồn tại gọi là vong.
* Về nhà ngoại cảm:Là người có khả năng tự thân đặc biệt được phát triển trong cuộc sống của họ để có thể làm trung gian trong mối liên hệ giữa vong và người còn sống.Trên cơ sở này tôi định nghĩa "áp vong" là: Mối liên hệ giữa vong và người còn sống qua tác động của nhà ngoại cảm, nhà tâm linh.
Cá nhân tôi cũng rất tin vào thuật thôi miên và theo tôi nó có nguồn gốc từ những nền văn minh cổ xưa và không thuộc về tri thức của khoa học hiện đại. Hiện nay cũng chưa có một lý thuyết khoa học nào giải thích được cơ chế của thuật thôi miên. Thôi miên là một phương pháp ứng dụng tồn tại trên thực tế. Cho nên nó cũng tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng. Áp vong thì không phải là một phương pháp , mà nó phụ thuộc vào khả năng cá nhân xuất hiện tự nhiên của con người.
Người có khả năng áp vong thực sự so với người tự nhận có khả năng áp vong để lừa bịp, hoặc tưởng mình có khả năng áp vong đều có thể kiểm chứng trên thực tế, mặc dù về hiện tượng chưa giải thích được cơ chế tương tác của nó. Bởi vậy, nói những nhà ngoại cảm dùng khả năng của mình đi lừa bịp là rất khó xảy ra.Tất nhiên với những kẻ tự cho mình là có khả năng áp vong và mang tính lừa bịp thì đây là việc của luật pháp không nằm trong phạm vi ý kiến của tôi.
Áp vong tìm mộ là điều cần thiếtQuan điểm của tôi là trên thế giới này - ngoài việc xử dụng phương pháp ngoại cảm áp vong - thì tôi chưa thấy một phương pháp khoa học, hoặc một phương tiện kỹ thuật nào có khả năng chỉ ra một vị trí mà dưới đó có một bộ xương, ngoài cách áp vong tìm mộ của các nhà ngoại cảm thực sự. Bởi vậy, trên thực tế cho thấy sự áp vong tìm mộ là điều cần thiết.Còn việc bộ xương tìm được có đúng là của người đã mất cần tìm hay không - như vấn đề được đặt ra gần đây - thì có nhiều phương pháp. Tôi cho rằng việc kiểm tra ADN là cần thiết, nhưng không phải là phương pháp duy nhất đúng có thể kiểm chứng. Nó chỉ cần thiết trong trường hợp mộ chôn tập thể, xương cốt lẫn vào nhau và cần phân biệt. Tôi cho rằng: Chính khả năng dự báo của những nhà ngoại cảm với những sự kiện liên quan trong quá trình tìm mộ và sự xác định có tính tiên tri những di vật khi đào được mộ đủ để xác minh tính đúng đắn và chính xác của việc áp vong tìm mộ. Khả năng tiên tri là một trong những tiêu chí để xác định phương pháp hoặc một lý thuyết khoa học.
Sau khi chết chúng ta sẽ thế nào? Ra sao? Đó là câu hỏi mà từ xưa tới nay loài người luôn tìm kiếm mà đến giờ vẫn chưa có câu trả lời. Khi đi tìm hiểu câu hỏi đó, đã hình thành nên các tôn giáo. Một điều đáng lưu ý là dù ở phương Tây hay phương Đông, người ta luôn tin rằng có một thế giới khác sau khi con người rời bỏ cuộc sống.
Cả Phật giáo và Thiên Chúa Giáo đều cho rằng con người sau khi chết sẽ được lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục tùy vào sự tu dưỡng của họ khi còn sống. Người Việt Nam ta, bên cạnh việc chịu ảnh hưởng của các tôn giáo về thế giới bên kia, bản thân chúng ta cũng đã có 1 tín ngưỡng thể hiện niềm tin rằng “chết chưa phải là hết”. Niềm tin đó được ghi nhận bởi tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Người Việt luôn tin rằng, ông bà, cha mẹ tuy mất đi nhưng vẫn dõi theo con cháu và phù hộ cho con cháu.
Trên thế giới có biết bao câu chuyện có những người chết rồi bất thần sống lại. Mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy được trong thời gian chết ấy.Trường hợp của bác sĩ George Ritchie dưới đây là một trong những trường hợp lạ lùng nhất trên thế giới bởi những gì mà ông kể lại sau khi thoát khỏi “lưỡi hái của tử thần”.Vào năm 1943, lúc này ông mới 20 tuổi, đang là một binh lính quân sự ở bang Texas. Trước khi tới thành phố Virginia để học Y khoa, Ritchie đã bị viêm phổi nặng, không lâu sau đó thì ông tắt thở.Bệnh viện đã tiến hành khám nghiệm và chuẩn bị đưa ông vào nhà xác. Thật bất ngờ, sau đó 9 phút, ông đã tỉnh lại cùng với lời kể gây chấn động dư luận thời bấy giờ.Ông kể mình đã ra ngoài đường trong tình trạng nhẹ bẫng. Khi ngang qua quán cà phê, George hỏi đường một người đàn ông nhưng ông ta hoàn toàn chẳng hề để ý tới những lời nói của George.Thấy ngạc nhiên, George chạm thử vào một chiếc dây điện thoại công cộng thì kỳ lạ thay, bàn tay ông có thể xuyên thấu chúng. Biết mình đã rời khỏi thể xác, George vô cùng hoảng hốt quay trở lại bệnh viện và ở đó có một sinh vật ánh sáng bí ẩn giúp linh hồn của ông nhập vào thân xác.Sau khi tỉnh dậy trong chính thân thể mình, ông mới biết mình được bệnh viện xác nhận đã chết và đang làm giấy báo tử. Không ai có thể tin, ông lại “cải tử hoàn sinh” như thế.Cho đến nay, nhiều sự mô tả về cõi chết đã được nhiều người chết đi sống lại tường thuật và người ta vẫn mơ hồ về "thế giới bên kia". Tại Pháp, ngay giữa thủ đô Paris đã quy tụ các nhà sinh lý, tâm lý và các nhà khoa học nghiên cứu nghiêm túc về linh hồn con người có tồn tại thật không sau khi chết đi.Những người này đang cố gắng gạt bỏ ra mọi ý nghĩ có tính cách mê tín dị đoan khi nghĩ về vấn đề của sự chết để có thể tự nhiên đón nhận và nghiên cứu các trường hợp liên quan về cõi chết. Qua hàng ngàn hồ sơ lưu trữ tại các viện nghiên cứu đằng sau sự chết, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu, gom góp được một số sự kiện trên đoạn đường mà sau khi thở hơi cuối cùng, người chết đã đi qua.Dĩ nhiên, những người này vì lý do nào đó được sống lại và mô tả tỉ mỉ. Hiện nay, phân tâm học, thôi miên học góp phần đắc lực thêm cho sự kiểm tra, nghiên cứu về vấn đề này.Tại Việt Nam từng xôn xao câu chuyện kỳ lạ của cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến ở thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, Hoà Bình. Cháu tên là Bình, sinh ngày 6/10/2002 - con của anh Hoan, chị Dự nhưng cháu cứ nằng nặc nhận mình là cháu Quyết Tiến (con chị Thuận - anh Tân) - đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều "bằng chứng" chứng tỏ mình là cháu bé đã chết, cháu Bình đã được nhận về nuôi như một sự sống lại của linh hồn đã chết trước đó.ThS Vũ Đức Huynh, một chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực cuộc sống của con người sau khi chết cho biết, khi một người chết, phần hồn chuyển sang dạng thức thành vong hồn. Từ cấu trúc nửa đậm đặc sang cấu trúc mang hạt hoàn toàn lỏng, loãng, nhẹ. Ở cõi vong, các vong hồn hấp thu năng lượng qua các hạt điện sinh học tự do có trong bao la và các hạt điện sinh học toát ra từ các thức dâng cúng.Nhờ vào nguồn năng lượng đó, vong hấp thụ và “cứng cáp” dần. Sau một khoảng thời gian, nó mới có thể thực sự hoạt động được ở cõi mới và những thực thể (vong hồn) có đủ năng lượng có thể vượt lên cõi cao hơn tức là cõi linh vong hay siêu linh và chính là cõi Niết bàn của Đạo phật và Thiên Đàng của Thiên Chúa Giáo.Ngày nay, khoa học không gian đã bay được lên không gian, đã nhìn được hết lòng đất, lòng biển. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa một lần nhìn thấy thiên đường hay đia ngục. Mặc dù vậy, khoa học đã tin và chứng minh được hiện tượng thần giao cách cảm, tin vào điện trường sinh học cùng nhiều vấn đề mà trước đây người ta cho là huyền hoặc.
Tuổi hạn 49, 53 cách hoá giải
Cho đến ngày thứ 49 thì Bụng nổ, Đầu rơi, khi bụng nổ và đầu rơi khỏi thân mình (từ thời điểm này phần thân xác sẽ không còn cảm giác đau đớn nữa) thì phần hồn sẽ cư ngụ về Hoa Cái (Hộp sọ) để chờ tới 100 ngày (Bách nhật) thì hồn lìa khỏi xác, xuất ra khỏi Mộ đi khắp nơi.
1-Hỏi :Vì sao lại có quan niệm về “tuổi hạn”? (tuổi hạn chung cho mọi người)
- Đáp : Theo từ điển Hán Việt thì Hạn là vùng đất nguy hiểm, ranh giới, phạm vi quy định, kỳ hạn quy định, ngưỡng cửa ...Từ xưa tới nay hễ nghe đến hạn là mọi người đều nghĩ tới những điều xấu không may mắn tới với mình, nhưng thực tế không phải Hạn nào cũng xấu. Thí dụ : đến Hạn lên lương, thăng quân hàm, nhận lãi tiết kiệm, kỳ phiếu, gia hạn vay vốn, CTTN hữu hạn....Thậm chí Hạn sao Mộc đức, Thái dương.v.v. lại rất tốt nhưng mọi người vẫn gọi là Hạn. Nên mới có chuyện đầu năm nhiều người vất vả nhờ Thầy cậy Thợ cắt giải hết cả sao Tốt đi thì con gì Phúc nữa. Sao xấu (hung tinh,ác tinh..) thì mới cắt giải, nhương tinh(nhượng) chuyển đổi đi, còn Cát tinh ,sao tốt thì phải Nghênh tinh (đón rước về) thì mới tốt chứ.
Tóm lại Hạn là 1 cái Mốc, Ngưỡng (limited) ,đến khi đó ta sẽ gặp sự kiện xấu hoặc tốt đến với bản thân hoặc gia đình.
2-Hỏi : Những tuổi nào được cho là “hạn”, cùng với 49, 53? Dựa vào đâu để tính được những tuổi đó là “hạn”? (Cách tính cụ thể như thế nào ạ?)
-Đáp : Đây là cách tính Cửu diệu tinh quân rất nhanh và đơn giản nhưng chính xác. Lấy số tuổi (tuổi Mụ) cộng dồn lại trừ cho 9 còn lại : 1 nam La hầu Nữ Kế đô, 2 Nam Thổ tú, Nữ Hoả đức, 3 Nam Thuỷ diệu, Nữ Mộc đức.v.v.
Sao La hầu
Nam giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82
Nữ giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78-87
Sao Thổ tú
Nam giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Nữ giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Sao Thuỷ Diệu
Nam giới tuổi : 12-21-30-39-48-57-66-75-84
Nữ giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Sao Thái Bạch
Nam giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85
Nữ giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80
Sao Thái Dương
Nam giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Nữ giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Sao Hoả Đức
Nam giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78
Nữ giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Sao Kế đô
Nam giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Nữ giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82
Sao Thái âm
Nam giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80
Nữ giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85
Sao Mộc đức
Nam giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Nữ giới tuổi : 03-12-21-30-39-48-57-66-75-84
3-Hỏi :(Nếu có thì phân chia tuổi hạn và những việc làm tương ứng như thế nào?). Hay là đều không được làm việc lớn đó?
-Đáp : Khi gặp hạn sao xấu thì nên mua đất, xây nhà, sửa chữa nhà cửa, mua xe hoặc sắm tài sản có giá trị, thuyên chuyển công tác,xây dựng gia đình, sinh con v.v. Nhưng phải xem có sao Long đức, Phúc đức, Hồng loan thiên hỷ,Trạch : Phúc, Đức, Bảo, An và thời vận của các thành viên trong nhà. Lưu ý các hạn khác đi kèm và Hoang ốc, Kim lâu.
4-Hỏi :Có phải hai tuổi 49, 53 là gặp hạn nặng nhất? Nếu đúng thì vì sao? Con số 49, 53 có ý nghĩa gì?
- Đáp :Trong thực tế cho thấy bất cứ thời gian nào trong cuộc đời đều có thể gặp vận hạn xấu, nhưng tỷ lệ thấp hơn tuổi 49, 53.
-Ly do thứ nhất :
Cộng dồn số 49 và 53 ta thấy:
4+9=13 1+3= 4 Nam Thái bạch, Nữ Thái âm
5+3=8 Nữ Thái bạch, Nam Thái âm
Thái là quá, Bạch là trắng (chủ về tang chế, tai nạn, xương cốt).v..Âm là tối, đen nước, hiểm trở (chủ về ốm đau, dao kéo,xe cộ, sông nước) .v.v.
Thái âm vận xấu than ôi
Thái âm thái bạch đi đôi khác gì
Do đó tính chất của 2 sao như nhau, nhưng có 2 cách gọi.Giống như người thì gọi cái Bát, người gọi là cái Chén vậy thôi.
-Lý do thứ 2 :
Chòm sao Thái tuế quản 12 năm hàng Chi như sau: 1 tuổi Thái tuế, 2 tuổi Thiếu dương, 3 tuổi Tang môn, 4 tuổi Thiếu âm, 5 tuổi Quan phù, 6 tuổi Tử phù, 7 tuổi Tuế phá, 8 tuổi Long đức, 9 tuổi Bạch hổ, 10 tuổi Phúc đức, 11 tuổi Điếu khách, 12 tuổi Trực phù.
Do đó cứ vòng 12 năm là gặp sao Thái tuế (năm tuổi).
Cụ thể là những năm có số tuổi chia cho 12 dư 1 như: 13, 25, 37, 49, 61, 73, 85.
Thái tuế chủ về quan sự, khẩu thiệt, hao tốn, ốm đau, tang chế.v.v.
Trước Thái tuế có Thiên không, Sau Thái tuế có Quán sách, đôi sao này thuộc hoả không lợi.
Đối diện sao Thái tuế là Tuế phá
Tuế phá là hạn dữ hung
Tự người mất của hãi hùng nhiều phen
-Lý do thứ 3 :
Theo quy luật của tạo hoá thì từ khi thai nghén đã theo chu kỳ 7*7. Các mốc có số 7 như 7 giờ, 7 ngày, 7 tuần, 7 tháng, 7 năm.v.v đều đánh dấu sự thay đổi quan trọng .
Thí dụ :
7 năm thứ nhất phát triển chiều ngang
7 năm thứ hai phát triển chiều cao
7 năm thứ ba phát dục
7 năm thứ tư phát triển cơ bắp
7 năm thứ năm phát triển trí tuệ
7 năm thứ sáu phát triển toàn diện
7 năm thứ bảy dừng lại, ổn định, dần suy giảm.
7 * 7 = 49
Hết chu kỳ này sẽ là 49, 53.
Đó là sự sinh, còn sự tử thì sao ?
"Sự tử như sự sinh"
Khi con người mất đi cũng theo luật tạo hoá cái gì sinh trước sẽ mất trước, sinh sau mất sau. Nên người ta mới lễ Tứ Cửu (49 ngày), còn gọi là thất thất lai tuần (7*7=49).Cứ thứ tự hàng tuần(7 ngày) thì phần thể xác lại mai một đi 1 phần tương ứng với sự sinh. Cho đến ngày thứ 49 thì Bụng nổ, Đầu rơi, khi bụng nổ và đầu rơi khỏi thân mình (từ thời điểm này phần thân xác sẽ không còn cảm giác đau đớn nữa) thì phần hồn sẽ cư ngụ về Hoa Cái (Hộp sọ) để chờ tới 100 ngày (Bách nhật) thì hồn lìa khỏi xác, xuất ra khỏi Mộ đi khắp nơi.
Cũng theo quy luật đó thì hết vòng 49,53 thì mọi sự lại tốt đẹp, hồi xuân .
5- Hỏi :Thực tế, nhiều người gặp hạn nặng (bệnh tật nguy kịch, thậm chí bỏ mạng) ở tuổi hạn, nhất là lúc 49 hoặc 53 tuổi, nhưng cũng có những người chỉ bị nhẹ. Lý giải điều đó như thế nào? Có phải tất cả mọi người khi đến tuổi đó thì cũng bị hạn chung hay là còn phụ thuộc vào căn, bản mệnh… nữa? Cái gì là yếu tố quyết định người ta bị hạn nặng hay nhẹ khi vào tuổi hạn?
-Đáp : Cũng tuổi 49, 53 hoặc cùng tuổi hạn như nhau nhưng mức độ ảnh hưởng không giống nhau. Người thì nhẹ, người gặp nặng, người không sao, có người còn thành công nữa.
Bởi vì hạn có 2 cách ảnh hưởng :
Chiếu Bản Mệnh và chiếu Gia sự.
Nếu 1 người đau mắt đau răng thì chỉ bản thân họ đau thì gọi là chiếu Bản Mệnh.
Nếu cháy nhà, có tang ..v.v.. thì ảnh hưởng đến cả nhà thì gọi là chiếu Gia sự.
Khi xem gia sự thì cần quan tâm đến tuổi và vận hạn của chủ nhà.
Nếu các thành viên trong nhà cùng tuổi hạn nhiều thì xấu hơn. Nhưng nếu ngược lại thì thành ra tốt.
Ngoài tuổi hạn và 49,53 ra rồi cần phải xem những hạn khác có đi kèm không, Thí dụ:
Hạn Tam tai
Hạn Huỳnh tuyền, Tam kheo, Ngũ mộ, Thiên tinh, Toán tận,Thiên la, Địa võng, Diêm vương.
Hoang ốc
Kim lâu
Trạch : Bại, Hư, Khốc, Quỷ, Tử.
Vận khăn xám
Vận làm nhà
Vận sang cát .v.v.
Những yếu tố trên sẽ quyết định Hạn xấu tốt của con người .
6-Hỏi : Có cách nào để giảm mức độ của “hạn” không? Cúng bái giải hạn có phải là một việc cần làm và hiệu quả nhất?
Đáp : Bí quyết giải hạn tống ách trừ tai ,cải hung hoá cát, cải hoạ vi tường :
-Sống hoà nhập thiên nhiên, tuân thủ quy luật tạo hoá.
-Không tham, sân, si.
-Năng làm việc thiện, giúp đỡ người tàn tật, khó khăn.
-Sinh hoạt điều độ, không hút thuốc, uống rượu, cẩn thận khi tham gia giao thông.
-Lễ dâng sao giải hạn, cầu Quốc thái Dân an là việc tốt, nên làm.Riêng việc Nhương tinh giải hạn, Nghênh tinh tiếp phúc tuy không tốn kém nhưng phải đúng ngày giờ giáng hạ, chữ viết bài vị, đủ số đèn, đúng hình sao, đúng hướng, đọc đúng tên vị Thần quản sao, chọn lễ đúng màu, lễ trung thiên thì mới có giá trị .Nếu không lập đàn được như trên thì thành tâm lễ Chùa hoặc lễ Thần linh + Gia tiên trong nhà mình là đủ .
7. Chú có lời nhắn nhủ hay khuyên giải gì với những người bước vào tuổi hạn?
-Đáp : Phật dạy rằng : “Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn dễ kiêu sa nổi dậy”
Thầy trò Đường tăng đi thỉnh kinh còn gặp 81 kiếp nạn.
Cũng chính con người từ thủa khai sinh đến nay đã vượt qua rất nhiều kiếp nạn để đạt được biết bao thành quả và công trình kỳ vỹ.
Thực ra những năm xung tháng hạn, 49, 53 chỉ là kỳ kiểm tra ( test) thông thường, Qua khó khăn con người sẽ trưởng thành, để rồi tới tuổi 70 ta muốn làm đều gì đều đúng, không sai quy củ .
Khổng tử nói rằng :
"Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý).
Một chiếc lá cây khi sống tạo ra một trường sinh học quanh nó, khi mất đi trường sinh học đó vẫn được bảo tồn. Với con người, điều đó có tồn tại không? Nếu có, đằng sau sự sống sẽ không còn là cái chết nữa.
Những câu hỏi và logic vấn đề đã đưa GS.TS Đoàn Xuân Mượu, nguyên Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ nghiên cứu sâu về lĩnh vực này. Sau hơn 30 năm thai nghén, ông vừa cho ra đời 3 tập sách mang tên: Con người và khoa học về tâm linh.
Hiểu sự huyền bí sẽ không còn mê tín dị đoan
Là giáo sư đầu ngành về vi trùng, virus, tại sao ông lại chuyển sang viết sách nghiên cứu “tâm linh”? Ông không sợ người ta cho rằng thế là mê tín dị đoan?
Virus nhỏ lắm. Nó còn nhỏ dưới mức vi khuẩn, mắt không nhìn thấy được. Trong thế giới tự nhiên đã có lúc ta ghi nhận những thứ không nhìn thấy được là vô hình. Trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy thế giới vô hình rất sống động, từ đó tôi liên tưởng đến đời sống con người ở những điều ta không nhìn thấy.
Cùng với quá trình nghiên cứu y học tôi cũng bắt tay nghiên cứu những điều về con người mà xưa vẫn cho là “bí ẩn”, là mê tín dị đoan... Dưới ánh sáng khoa học, những “bí ẩn” đó không còn chỗ nương thân cho những gì gọi là mê tín, kỳ quặc.
Nói như thế theo tôi hiểu ông công nhận thế giới tâm linh là có thật?
Tôi không dám làm trọng tài trong tất cả những vấn đề mà thế giới đang tranh luận, chưa ngã ngũ. Tôi chỉ là người đọc nhiều, tâm huyết đến lĩnh vực “đời người” và cố gắng đưa những gì chưa biết ra ánh sáng.
Ông có thể nói rõ hơn?
3.000 năm qua, chúng ta tìm hiểu vũ trụ nhiều hơn tìm hiểu chính mình. Do đó, vốn hiểu biết về thế giới tự nhiên lớn hơn hiểu biết chính bản thân, kể cả nguồn gốc chính mình và những khả năng đặc biệt của con người.
Trước đây, khoa học chính thống theo mô thức thực chứng duy lý, dựa trên nền tảng vật lý cổ điển của Newton không giải thích được các hiện tượng đặc biệt này. Nó không công nhận thế giới siêu hình và cho rằng nguyên tử là nguyên tố bé nhất.
Đến đầu thế kỷ XX xuất hiện mầm mống thuyết tương đối của Enstein thuyết này nói rằng, ngoài nguyên tử là phần tử nhỏ nhất còn có sóng và hạt. Thuyết lượng tử từ đó cũng lên ngôi.
Vì vậy, về phương diện xã hội nếu quảng đại quần chúng hiểu biết cơ sở khoa học của sự huyền bí thì sẽ không còn chỗ nương thân cho mê tín dị đoan đang lan tràn rộng rãi như hiện nay. Huyền bí không mâu thuẫn với tự nhiên, chỉ mâu thuẫn với sự hiểu biết của con người về quy luật tự nhiên.
Sóng và hạt đều là những thứ ta không sờ, nắm, nhìn thấy được, phải chăng ông muốn nói đến bên kia cuộc sống của con người vẫn tồn tại một thế giới mà ta không sờ nắm được?
Tôi cho rằng thế kỷ XXI có nhiều vấn đề tâm linh khiến nhiều người quan tâm. Bộ sách 3 cuốn về con người và thế giới tâm linh của tôi ra đời từ đó, ở đó tôi nhìn nhận con người dưới góc độ khác.
Nguồn gốc loài người bắt nguồn từ năng lượng
Với cách nhìn nhận của ông, thủy tổ của loài người không phải là khỉ?
Dựa vào các thuyết về nguồn gốc con người: thuyết tiến hóa của Darwin, thuyết Mundasep và nhiều học thuyết khác thì thấy, con người không phải từ linh trưởng mà phát triển lên. Con người cũng như động vật, thực vật muôn loài đều do tạo hóa sinh ra, từ cái gọi là chân không vật lý mà theo Phật học thì gọi là “sắc sắc không không”.
Mọi sinh vật được tạo hoá sinh ra không phải một cách tình cờ, mà đều có ý định, có mục đích do “Ý thức vũ trụ”. Ý thức có trước, kế hoạch sáng thế có sau, tất cả đều bắt nguồn từ năng lượng. Con người phải do năng lượng sinh ra, bắt đầu từ năng lượng lỏng, năng lượng đặc và thành hình hài con người ngày nay.
Thực tế, bằng phương pháp phóng xạ xương người ở Nam Mỹ cách đây hơn 3 triệu năm, phóng xạ xương của loài linh trưởng sau khi tìm kiếm đều không chứng minh được nguồn gốc con người từ linh trưởng. Từ xa xưa xương bàn tay con người đã có hoạt động khôn khéo rồi. Thế giới nhiều nơi đã công nhận con người là sinh vật do vũ trụ sinh ra, con người là hình chiếu của vũ trụ.
Theo logic của ông, con người sẽ được cấu tạo thế nào?
Con người gồm 7 phần gồm thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình, được y học chính thống giảng dạy (đây là năng lượng đặc), 6 phần còn lại có độ đặc khác nhau. Năng lượng càng loãng càng nghiêng dần về phía linh cảm (năng lượng chưa phải tế vi). Khi sống, phần năng lượng đặc vẫn còn nhưng khi mất đi thì phần năng lượng đặc mất, các phần năng lượng khác vẫn tồn tại.
Có phải nhờ những phần năng lượng không mất đi mà một số người có khả năng ngoại cảm không? Tuyến tùng ở những người đó phát triển cao hơn bình thường?
Người bình thường ai cũng có tuyến tùng như là dấu vết của con mắt thứ 3 ở giống người tiền sử (hay còn gọi là giác quan thứ 6). Khả năng ngoại cảm không phải do một mình tuyến tùng mà còn liên quan đến các thân thể tế vi.
Khả năng ngoại cảm do tạo hoá ban cho, không phải do luyện tập mà có, càng không phải do tuyến tùng phì đại. Khả năng chữa bệnh của một số nhà ngoại cảm, về nguyên tắc và lý thuyết, có thể có. Tuy nhiên không phải đã là nhà ngoại cảm thì đều có khả năng chữa bệnh.
Là bác sĩ Tây y sao ông lại tin tưởng vào cách chữa có vẻ phi khoa học của các nhà ngoại cảm?
Các nhà y học chính thống vốn chữa bệnh cho thân thể vật lý. Tuy nhiên, còn có những dạng bệnh do năng lượng sóng đứng gây nên, chúng đòi hỏi phải có cách tiếp cận khác gọi là y học đa chiều, trong chẩn đoán, tự chẩn đoán, điều trị, tự điều trị, khác với y học chính thống.
Trong thực tế chắc có những người mạo danh ngoại cảm cần phải ngăn cản. Bộ sách của tôi là sự cố gắng lý giải những điều chưa biết. Cái biết vốn dĩ hữu hạn, cái chưa biết là cái vô hạn. Tuy nhiên, không phải vì chưa biết mà phủ nhận tất cả một cách hồ đồ.
Xin cảm ơn ông!